• Banner hội họa VN
  • Banner hội họa VN
HỘI HỌA VIỆT NAM
CƠ CẤU TỔ CHỨC HỘI HỌA TẠI PHÁP VÀ GIẢI THƯỞNG HỘI HỌA “ĐÔNG DƯƠNG” (PRIX DE L-INDOCHINE)
MUỐN TÌM HIỂU VỀ HỘI HỌA VIỆT NAM VÀO ĐẦU THẾ KỶ XX VÀ GIẢI THƯỞNG CÓ TÊN LÀ “ĐÔNG DƯƠNG”, CHÚNG TA CẦN NÓI SƠ QUA VỀ HOÀN CẢNH CŨNG NHƯ CƠ CẤU HỘI HỌA TẠI NƯỚC PHÁP VÀO THỜI ĐIỂM ẤY VÀ ẢNH HƯỞNG CỦA NÓ ĐỐI VỚI MỸ  THUẬT VIỆT NAM.
Ngô Kim Khôi
Mô hình đền Ankor nhìn từ tòa nhà
Guadeloupe tại triển lãm Thuộc địa năm 1931


HÀN LÂM VIỆN VÀ CÁC TỔ CHỨC HỘI HỌA
Nền hội họa Pháp chịu sự chi phối của Hàn lâm viện và các tổ chức hội họa. Viện Hàn lâm Pháp (Institut de France) thành lập ngày 25/10/1975, trong Viện Hàn lâm Pháp có Viện Mỹ thuật (Académie des Beaux-Arts), thành lập năm 1816. Các thành viên là họa sĩ, điêu khắc gia, nhạc sĩ, kiến trúc sư…
Bên cạnh Viện Hàn lâm là các tổ chức hội họa như:
1./ Triển lãm Nghệ sĩ Pháp (Salon des Artistes Francais): Năm 1663, Thái dương Hoàng đế Pháp Louis XIV (Loui Dieudonné, 1638-1715) ra quyết định,  hàng năm, vào tháng 4, các họa sĩ và điêu khắc gia thuộc Hàn lâm viện Hoàng Gia (L’Académie Royale) phải tổ chức công khai một cuộc triển lãm nghệ thuật, tên gọi là “Triển lãm Nghệ sĩ Pháp”. Ngày 23/04/1667, cuộc triển lãm đầu tiên được mở ra cho công chúng tại Hàn lâm viện Paris. Dưới triều Louis XV (1710-1774), “Triển lãm Nghệ sĩ Pháp” được tổ chức tại Phòng Vuông (grand salon carré) ở điện Louvre vào năm 1725, từ đó mới có chữ “Salon” để gọi chung cho tất cả triển lãm sau đấy. Đầu tiên, Salon chỉ dành riêng các thành viên thuộc Hàn lâm viện Hoàng Gia. Sau Cách mạng 14/7/1789, Salon mở cửa cho tất cả các nghệ sĩ Pháp.
Từ năm 1798, vì có quá nhiều nghệ sĩ muốn triển lãm nên Salon quyết định lập ra một ban giám khảo để chọn lọc tác phẩm. Từ năm 1863, Salon được tổ chức trở lại hàng năm, triển lãm trung bình 2000 tác phẩm. Năm 1870, con số tác phẩm lên đến 5409!

VICTOR TARDIEU (Giải thưởng Đông Dương năm 1920)
trước bức tranh tường lớn tại giảng đường trường Đại học Hà Nội
 













2./ Triển lãm hội họa bị từ chối (Salon des Réfusés): Năm 1863 mở ra cuộc “Triển lãm bị từ chối” (Salon des Réfusés), bao gồm những tác phẩm bị ban giám khảo của Salon loại bỏ. Triển lãm này được sự cho phép của Napoléon III (1808-1873), nhằm “…để cho công chúng phán đoán tính hợp pháp của mọi sự khiếu nại…”. Trong các tác phẩm bị từ chối này có bức “Le bain” Tắm của họa sĩ lừng danh Edouard Manet! “Triển lãm hội họa bị từ chối” còn được tổ chức vào những năm 1874, 1875, 1886,… Nhưng từ năm 1881, triển lãm này không còn được sự ủng hộ chính thức của chính phủ nữa.
3./ Hội Nghệ sĩ Pháp (Société des Artistes Francais): Năm 1881, dưới thời Đệ tam Cộng hòa, Bộ trưởng Học chính và Mỹ thuật Jules Ferry quyết định chính quyền không can thiệp vào các cuộc triển lãm nghệ thuật nữa, từ đó lập ra “Hội nghệ sĩ Pháp” với một ủy ban gồm 90 thành viên. “Hội nghệ sĩ Pháp” có thể nói là đóng một vai trò rất quan trọng trong nền nghệ thuật Pháp.
Chân dung người đàn bà. Sơn dầu. 45x50cm 
4./ Hội Mỹ thuật quốc gia (Société nationale des Beaux-Arts): Năm 1889, sự bất đồng ý kiến giữa các nghệ sĩ dẫn đến sự thành lập “Hội Mỹ thuật quốc gia” do Puvis de Chavannes, Carrière, Carolus Duran… tổ chức triển lãm tại quảng trường Champ de Mars (gần tháp Effel) chứ không ở Louvre.
Bắt đầu từ năm 1900, hai hiệp hội kình địch trên hàn gắn mọi rạn nứt, bắt tay kết hợp nhau để cùng triển lãm tại Đại Cung điện (Grand Palais des Champs Elysées). Đến năm 1940 “Hội Mỹ thuật quốc gia” đóng cửa trong khi “Hội Nghệ sĩ Pháp” vẫn còn hoạt động trong Đại Cung điện cho đến ngày nay.
5./ Hội họa sĩ xu hướng Đông phương (Société des Peintres orientalistes): Năm 1893 thành lập tại Paris với mục đích tìm hiểu và trình bày nền văn hóa nghệ thuật Đông phương, đặc biệt là các nước Hồi giáo. Léonce Bénédite, sử gia nghệ thuật và quản đốc bảo tàng Luxembourg được bầu làm chủ tịch cho đến khi mất vào năm 1925.
“Hội họa sĩ xu hướng Đông phương” tổ chức triển lãm hàng năm, bị gián đoạn trong thế chiến thứ nhất. Năm 1897, hội lập ra 1 giải thưởng dành cho họa sĩ trẻ trên đất thuộc địa Pháp tại Châu Phi. Hội còn tham dự những cuộc triễn lãm lớn dành của chính quyền, như triễn lãm Hoàn Cầu( Expositions Univeselles) hoặc triễn lãm Thuộc Địa ( Expositions Coloniales)… Hội đạt được tuyệt đỉnh vinh quang từ  năm 1910, đặc biệt với hơn 1000 tác phẩm trưng bày năm 1913. Sau khi chủ tịch Léonce Bénédite qua đời, “ Hội họa sĩ xu hướng Đông phương” bước vào giai đoạn suy tàn, triễn lãm lần cuối cùng là vào năm 1948.
Kẻ sĩ. Sơn dầu. 95x134cm
6./Hội thuộc địa nghệ sỹ Pháp ( Socíeté coloniale des Artistes Fancais ) : Tại triễn lãm Thuộc địa Marseille,  họa sĩ Louis Dumoulin, phụ trách và cố vấn mỹ thuật, khơi lên trong lòng các họa sĩ sức lôi cuốn của nền văn minh và phong cảnh các nước thuộc địa. Sau đó, với sự tài trợ của Bộ Thuộc địa cũng như các Toàn quyền và công ty hàng hải, Louis Domoulin lập ra 1 số học bổng du lịch ( bourses de voyage ).
“ Hội thuộc địa nghệ sĩ Pháp” trở thành “Hội mỹ thuật Pháp quốc Hải ngoại” ( Socíeté des Beaux- Arts de la France d’ Outre Mer). Năm 1960 tình trạng thuộc địa bắt đầu chấm dứt, hội lại đổi tên “ Hội mỹ thuật Hải ngoại” ( socíeté des Beaux- Art d’ Outre Mer)  
Dù có mở salon hay không, Hội vẫn trao tặng học bổng du lịch hàng năm. Chỉ bắt đầu từ năm 1929, Hội mới mở salon đều đặn mỗi năm. Hội còn trao nhiêu giải thưởng khac nhau, trong đó có giải thưởng Đông Dương ( prix de l’ Indochine ). Chính “ hội thuộc địa nghệ sĩ Pháp” đá sáng lập Bảo tàng mỹ thuật Casablanca



 
JEAN BOUCHAUD (Giải thưởng Đông Dương năm 1924).
Những người bán cá. 1924-25. Màu nước. 20,5x47,5cm

 

 

 

 

 

7./ Hội nghệ sĩ độc lập ( Socíeté des Artistes Indépendants): từ năm 1870, vì không thích nghi và không chịu gò bó theo tính cách nghiêm khác hàn lâm cổ điển của salon, các họa sĩ theo trường phái  JEAN BOUCHAUD (Giải thưởng Đông Dương năm 1924).
Ấn tượng tổ chức những triển lãm riêng. Năm 1884, Albert Dubois Pillet, Odilon Redon, Georges Seurat, Paul Gauguin, Henri de Toulouse  Lautrec, Camille Pissarro… thành lập “ hội nghệ sĩ độc lập”, với chủ trương không cần giám khảo và không trao giải thưởng. Hội mở cuộc triển lãm đầu tiên vào ngày 01/ 12/ 1884  và sau đó đều đặn hàng năm. Các tác phẩm có khuynh hướng tượng trưng, fauvime, nabis, lập thể…., xuất hiện trong những triển lãm này. Ngày nay, “ hội nghệ sĩ độc lập” vẫn còn hoạt động và mở triển lãm hàng năm.

Đồ án được giải thưởng Khôi nguyên
La Mã của KTS Ngô Viết Thụ
8./ Triển lãm mùa thu ( salon d’ automne) : 
Ngày 31/10/1903, theo khởi xướng của điêu khắc gia Belge Franz Jourdain và 1 số bạn hữu, “ triển lãm mùa thu “ được sáng lập và tổ chức tại Tiểu Cung Điện ( petit Palais). Salon có 2 mục đích : mở đường cho các họa sĩ trẻ và mang trường phái Ấn  tượng hòa nhập vào tâm hồn dân chúng. Salon chọn mùa thu để các họa sĩ giới thiệu những tác phẩm vừa  được thực hiện dưới nắng hè rực rỡ và quan trọng hơn là không trùng với các salon của “ Hội nghệ sĩ Pháp” và “ Hội mỹ thuật quốc gia”, cả 2 đều triển lãm vào mùa xuân. Trước những thành công rực rỡ năm 1904, “ triển lãm mua thu” rời  Tiểu Cung Điện bước sang Đại Cung Điện, triển lãm giới thiệu 33 tác phẩm của Paul Cézanne, 62 Odilon Redon và 35 Auguste Renoir! Triển lãm 1905 đánh dấu  1 bước ngoặt lớn cho trường phái Ấn tượng với rất nhiều sáng tác mạnh mẽ của giới trẻ. “triển lãm mùa thu” họat động và mở triển lãm hàng năm cho đến nay.
9./ Các hội đoàn khác: ngoài những triển lãm nói trên, chúng ta còn có “triển lãm Tuileries” ( salon des Tuileries), thành lập năm 1923, cũng gặt hái nhiều thành công, và “ hội họa sĩ chuyên vẽ Động vật” ( socíeté des peintres animaliers ) có chỗ đứng riêng biệt.



 
EVARISTE JONCHERE
(Giải thưởng Đông Dương năm 1932).
Cánh cửa tủ sơn mài. 160x60x98cm.
Ảnh từ sách Paris Ha Noi Sai Gon của Paris Musse
TRƯỜNG MỸ THUẬT
1./ Trường cao đẳng mỹ thuật quốc gia Paris ( École nationale supérieure des beaux-arts, gọi tắt là ENSBA ): 
Tập hợp 1 tổng thể rộng lớn, ở vị trí đối diện với điện Louvre, thuở ban đầu trường Mỹ thuật nằm trong viện mỹ thuật Hoàng gia ( Académie des Beaux-art ), đặt dưới sự bảo trợ trực tiếp của hoàng đế Pháp. Ngày 13/ 11/ 1863, theo sắc lệnh của vua Napoléon III, trường trở thành tự lập. Ngày nay trường cao đảng mỹ thuật Quốc gia thuộc bộ thông tin văn hóa.
Trường mỹ thuật Parischia làm 3 ban :
a.  Hội họa và tranh khắc gỗ.
b.  Điêu khắc, chạm trổ huy hiệu và đá quý.
c.  Kiến trúc.
Trường tuyển sinh hàng năm, với chương trình học 5 năm gồm 17 giáo trình miến phí cho sinh viên từ 15-30 tuổi. Mỗi năm, trường tổ chức nhiều triển lãm để ban giải thưởng. Giải La Mã được xem là cao quý và danh giá nhất.
2./ Trường mỹ thuật tỉnh ( les écoles de Beaux-arts de Province ):từ thế kỷ thứ XIX, rất nhiều trường mỹ thuật được thành lập tại các tỉnh đất Pháp. Các trường này theo khuôn mẫu của Trường mỹ thuật Paris. Đáng kể nhất là trường Marseille, Lyon và Bordeaux.
3./ Các xưởng họa ( les ateliers d’artistes): một loại “trường học” chính thức và bán chính thức do các giáo sư mở ra, là nơi đào tạo cho các họa sĩ trẻ có cơ hội đối chiếu cá quan niệm và lý thuyết của thầy, nhằm thu thập được 1 kỹ thuật chắn chắc và phát triển phong cách riêng của mình.
4./ Trường Mỹ thuật Quốc gia Alger (École Nationale des Beaux-Arts d’Alger): Thành lập năm 1843, đầu tiên chỉ là một trường dạy vẽ hình (dessin). Đến năm 1848, là trường học thành phố và chính thức trở thành Trường Mỹ thuật Quốc gia Alger vào năm 1881. Các lớp học được mở miễn phí và sinh viên không cần thi tuyển sinh.
5./ Trường Mỹ thuật Tunis(École des Beaux-Arts de Tunis): Thành lập năm 1923, dưới sự chỉ đạo của họa sĩ Antoine Armand Vergeaud từ năm 1927 đến 1949.
6./ Trường Cao đẳng Mỹ thuật Đông Dương(École Supérieure des Beaux-Arts de l’Indochine): Được thành lập vào năm 1924. Trường Cao đẳng Mỹ thuật Đông Dương đã đưa hội họa Việt Namvào một nền mỹ thuật có phong cách và chỗ đứng riêng biệt.
Theo khuôn mẫu của Trường Mỹ thuật Paris, qua cuộc thi tuyển sinh, sinh viên là người Đông Dương hoặc người Pháp. Đầu tiên Trường Cao đẳng Mỹ thuật Đông Dương có chương trình học là 3 năm, sau đó đổi thành 5 năm, đã đào tạo nhiều họa sĩ nổi tiếng của mỹ thuật Việt Nam. Ngoài những môn học thường lệ như hội họa, đồ họa, điêu khắc, kiến trúc, trường còn đưa vào chương trình học môn sơn mài thuần túy Việt Nam.
Trường Cao đẳng Mỹ thuật Đông Dương đóng cửa vào năm 1945 để sau đó trở thành Trường Đại học Mỹ  thuật Hà Nội cho đến ngày nay.
EVARISTE JONCHERE. Người ăn xin ở Hải Phòng.
1932. Sơn dầu. 34,5x27cm 
ĐẠI TRIỂN LÃM
Những cuộc triển lãm lớn có tầm vóc quốc tế tại Pháp từ thế kỷ 19 là Triển lãm Hoàn cầu (exposition Universelle) và triển lãm Thuộc địa (esposition Coloniale).
1./ Triển lãm Hoàn cầu (exposition Universelle): Thịnh hành vào thế kỷ 19 như những  hội chợ (đấu xảo) được tổ chức hàng năm tại các nước phát triển cao trên thế giới. Đầu tiên, triển lãm Hoàn cầu chuyên chú vào sản phẩm nông nghiệp, triển lãm tại điện Công nghiệp (Palais de l’Industrie) ở Parisnăm 1855. Sau đó, dưới sự can thiệp của Nữ hoàng Eugénie, triển lãm có thêm một phần về mỹ thuật.
Triển lãm Paris1867 lần đầu tiên trưng bày một số hiện vật thuộc nghệ thuật Khmer. Triển lãm Paris 1878 có dựng một đình và một ngôi nhà kiểu Đông Dương. Triển lãm Paris 1889 trùng hợp với việc khai mạc Bảo tàng Đông Dương ở Trocadéro (Musée indochinois du Trocadéro), cũng là cơ hội xây dựng tháp Effel nổi tiếng.
2./ Triển lãm Thuộc địa (exposition Coloniale): Ba cuộc triển lãm Thuộc địa năm 1906, 1922 và 1931 có ảnh hưởng quan trọng, làm thay đổi cái nhìn của người Tây phương đối với nền văn minh các nước thuộc địa.
Triển lãm năm 1906tại Marseille từ ngày 15/4 đến 15/11. Cuộc triển lãm sẽ không có tiếng vang nếu không có những bức tranh vẽ các vũ công của đoàn vũ cung đình Khmer, do điêu khắc gia danh tiếng Auguste Rodin thực hiện trong dịp này.
Triển lãm năm 1922tổ chức tại Marseille từ tháng 4 đến tháng 11, đặt trong  khung cảnh tầng 3 của đền Angkor Vat được tái tạo huy hoàng to lớn như thật. Trong triển lãm có sự tham gia của vua Khải Định, ăn mặc lố lăng và làm nhiều trò đến nỗi Phan Chu Trinh đã phải viết tờ “Thất điều trần” gồm 7 điều khuyên vua Khải Định về nước gấp, đừng làm nhục quốc thể.
Triển lãm năm 1931được tổ chức tại rừng Vincennes(Paris) từ ngày 06/5 đến 15/1. Không chỉ tầng 3, mà toàn cảnh 5 tháp đền Angkor Vat được tái tạo một cách tráng lệ trước cổng danh dự. Ngoài ra, các nước tham dự còn dựng lên những đền đài, đình chùa, nhà cửa…, giới thiệu văn hóa và con người của quốc gia mình, tạo một bầu không khí ngỡ ngàng thần tiên cho triển lãm 1931. Đây là một triển lãm to lớn chưa từng có, đã thu hút hơn 33 triệu khán giả. “Hội họa sĩ xu hướng Đông phương” và “Hội thuộc địa nghệ sĩ Pháp” cũng tham dự trong triển lãm này.
Riêng về Đông Dương, các họa sĩ có tác phẩm trưng bày là Nam Sơn, Lê Phổ, Mai Trung Thứ, Nguyễn Phan Chánh, Georges Khánh, Lê Văn Đệ, Vũ Cao Đàm, Lê Thị Lựu…
GIẢI THƯỞNG HỘI HỌA
1./ Giải thưởng Triển lãm Nghệ sĩ Pháp
(Prix du Salon des Artistes Francais): Còn gọi là “Giải thưởng Salon” (Prix du Salon), được đặt ra năm 1874 cho một họa sĩ (hoặc điêu khắc gia từ 1877) dưới 32 tuổi. Quà tặng là một thời gian tìm hiểu nghệ thuật ở Rome (Ý). Năm 1953, điều kiện giới hạn tuổi được loại bỏ. Ngoài Giải thưởng Salon còn có Huy chương hạng Nhất, Nhì và Ba.
Điều kiện được đoạt giải thưởng này là phải có tác phẩm trưng bày tại “Triển lãm nghệ sĩ Pháp” (Salon des Artistes Francais), “Hội Mỹ thuật quốc gia” (Société Nationale des Beaux-Arts), “Triển lãm mùa Thu” hay “Triển lãm Tuileries”. Từ năm 1897, “Giải thưởng Salon” trở thành “Giải thưởng Quốc gia” (Prix National).
2./ Giải thưởng La mã(Prix de Rome et la Villa Médicis): Có thể nói đây là Giải thưởng cao quí tuyệt vời được các nghệ sĩ khao khát nhất, sáng lập năm 1663 dưới triều Louis XIV, thường được gọi là giải Khôi nguyên La Mã. Giải thưởng do Hàn lâm viện Hoàng Gia (L’Académie Royale) tổ chức, dành cho họa sĩ, điêu khắc gia, kiến trúc sư hay họa sĩ đồ họa (năm 1803 thêm nhạc sĩ). Giải Khôi nguyên (Grand Prix) là 4 năm du học ở Rome vì nơi đấy được xem là cội nguồn của cái đẹp thuần túy, nội trú tại cung điện Mancini (năm 1803, sau dời sang Biệt thự Médicis, trụ sở Hàn lâm viện Pháp tại Rome do Colbert thành lập từ năm 1666), dưới kinh phí của hoàng đế Pháp.
Ngoài ra còn có giải thưởng lớn hạng Nhất (Premier Grand Prix) và giải thưởng lớn hạng Nhì (Second Grand Prix) cũng được du học tại Rome nhưng với thời hạn ngắn hơn, hoặc giải thưởng Danh dự (mention honorable).
Với biến cố tháng 5/1968 tại Paris, Bộ trưởng Văn hóa André Malraux hủy bỏ cuộc thi tuyển, thay vào đó là tuyển sinh bằng hồ sơ và giải thưởng là thời gian du học 6 đến 18 tháng, vẫn được cư ngụ tại Biệt thự Médicis cho đến ngày nay.
Người Việt  Nam duy nhất đoạt được giải thưởng Khôi nguyên La Mã( Grand Prix de Rome) vào năm 1955 là kiên trúc sư Ngô Viết Thụ (1926-2000), ông cư ngụ tại biệt thự Médicis từ năm 1955 đến 1958.
3./ Giải thưởng Casa Vélazquez(Le concours de la Casa Vélazquez): Giải thưởng Casa Vélazquez là một trong những giải thưởng của Viện Mỹ thuật Pháp (Académie des Beaux-Arts). Nghệ sỹ đoạt giải sẽ cư ngụ tại điện Vélazquez ở Madrid(Tây Ban Nha) trong thời gian du học, cũng giống như  tại biệt thự Médicis ở Rome. Giải thưởng Casa Vélazquez vẫn còn tồn tại cho đến ngày nay.
4./ Giải thưởng Villa Abd-el-Tif (Le concours de la Villa Abd-el-Tif):Thành lập vào năm 1907, nghệ sỹ đoạt giải sẽ cư ngụ tại biệt thự Abd-el-Tif (Alger, Angiêri). Giải thưởng Villa Abd-el-Tif kéo dài đến năm 1962 thì chấm dứt.
5./ Học bổng du lịch (Les bourses de voyage): Bắt đầu từ năm 1880, phát triển việc trao học bổng du lịch cho nghệ sỹ đi đến vùng đất lạ để nghiên cứu. Học bổng đóng vai trò quan trọng cho nghệ sỹ pháy huy phong cách về đề tài mới. Hội đồng tối cao của Trường Mỹ thuật Paristrao hàng năm 9 học bổng cho các tác phẩm lỗi lạc trưng bày của các triển lãm.
6./ Các giải thưởng khác: Năm 1908 thành lập giải thưởng Tây Phi Pháp quốc (prix de l’Afrique Occidetale Francaise). Năm 1910, giải thưởng Đông Dương (prix de l’Indochine). Năm 1913, giải thưởng Madagascar(prix de Madagascar). Năm 1919, giải thưởng Maroc và Tunisie (prix du Maroc et de la Tunisie). Năm 1924, giải thưởng Trung Phi Pháp quốc(prix de l’Afrique Équatoriale Francaise)…

Từ trái qua phải, hàng ngồi là các thầy giáo: Bà Kruze (Thứ 3),
Tardieu (Thứ 4), Inguimberty (thứ 6), Nam Sơn (thứ 7).
Hàng đứng đầu tiên: Công Văn Trung (thứ 1),
Lê Văn Đệ (thứ 10), Nguyễn Gia Khánh
(Goerges Khanh) (thứ 14)
và Vũ Cao Đàm ở cuối cùng hàng đứng thứ 2

 

 

 

 

 

 

 

 

GIẢI THƯỞNG ĐÔNG DƯƠNG (Prix de l’Indochine)
Giải thưởng Đông Dương do Thống đốc Toàn quyền Đông Dương Antony Wladislas Klobukowski ban nghị định năm 1910, theo đề xướng của “Hội thuộc địa nghệ sĩ Pháp” (Société Coloniale des Artistes Francais).
1./ Giải thưởng Đông Dương trước khi Trường Mỹ thuật Đông Dương ra đời:
Họa sĩ có tác phẩm trưng bày tại triển lãm “Hội thuộc địa nghệ sĩ Pháp” sẽ qua một cuộc tuyển chọn, người đoạt giải sẽ được trao tặng một năm du lịch nghiên cứu, cộng thêm vé hạng nhất khứ hồi, một tài trợ là 1.200 đồng Đông Dương và đi lại miễn phí trên toàn Đông Dương. Xin lưu ý là đầu thế kỷ, 1 đồng Đông Dương trị giá 3 quan Pháp. Từ năm 1925 đến 1927, tỉ giá trung bình là 14 quan Pháp. Năm 1931, đồng Đông Dương theo tỉ giá kim bảng vị (giá vàng) và cố định là 10 quan Pháp.
Các họa sĩ được đoạt giải là:
1910    -  Ferdinand Olivier (Martigues 1873-1957).
1911    -  Francois de Marliave (Toulon 1874 – Draguignan 1953).
1912    -  Augustin Carréra (Madrid 1878 – Paris 1952).
1913    -  Martinien Salgé (Marseille 1878 – Jouques 1946).
1914    -  Charles Dominique Fouqueray (Le Mans 1869 – Paris 1956)
Vào thời kỳ đại thế chiến thứ nhất (1914-1918), việc phát giải thưởng Đông Dương bị gián đoạn cho đến năm 1920.
1920    -  Victor Tardieu (Lyon 1870 – Hà Nội 1937).
1921    -  Paul Jouve (Marlotte 1878 – Paris 1973).
1922    -  Antoine Ponchin (Marseille 1872 – 1934).
1923    -  Goerges Michel, còn gọi là Géo Michel (Paris 1885 - ?)
1924    -  Jean Bouchaud (Saint-Herblain 1891 – Nantes 1977).
2./ Giải thưởng Đông Dương sau khi Trường Mỹ thuật Đông Dương ra đời:
Theo đề nghị của Nam Sơn, họa sĩ Việt Nam, và Victor Tardieu, giải thưởng Đông Dương năm 1920, trong một bản phúc trình dưới cái tên “Nghệ thuật An Nam trong quá khứ, hiện tại và tương lai” đã đề cập với chính quyền thuộc địa vấn đề mở ra một Trường Mỹ thuật tại Đông Dương.
Bản phúc trình này được chuẩn y bởi Thống đốc Toàn quyền Martial Henri Merlin. Ngày 27 tháng 10 năm 1924, xuất hiện trong Công báo (Journal Officiel) nghị định thành lập một ngôi trường dưới tên Trường Mỹ thuật Đông Dương. Ngôi trường này sẽ được dựng lên tại số 102 đường Reinach, gầnt Viễn đông Bác cổ, trực hệ Giáo đoàn Pháp (l’Université de France) tại Hà Nội, dưới sự hướng dẫn và kiểm soát của nhà Học chính, với Victor Tardieu là Hiệu trưởng.
Từ ấy, theo ý muốn của chính quyền và Trường Mỹ thuật Đông Dương, giải thưởng Đông Dương được cải cách, họa sĩ đoạt giải có thời gian nghiên cứu là hai năm chứ không chỉ là một năm như trước. Năm đầu tiên dành cho việc tham quan, tìm hiểu, học hỏi và ghi lại những ấn tượng qua tranh vẽ, được học bổng là 400 đồng Đông Dương mỗi tháng. Năm còn lại giữ chức vụ giảng dạy tại Trường Mỹ thuật Đông Dương, được học bổng là 350 đồng Đông Dương mỗi tháng và nơi cư ngụ miễn phí ở Hà Nội. Trước khi lên đường trở về Pháp, một cuộc triển lãm tranh của họa sĩ sẽ được tổ chức tại Hà Nội và Sài Gòn.
Các họa sĩ được đoạt giải là:
1925    – Jules Gustave Besson (Paris 1868 - ?).
1926    – Paul-Émile Legouez (Elbeuf 1882 - ?)
1927    – Raymond Virac (Madrid 1892 – Madagasca 1946).
1928    – Henri Dabadie (Pau 1867 – 1949)
1929    – Lucien Lièvre (Paris 1878 - ?)
1930    – Louis Rollet (Paris 1895 – 1944).
1931    – Léon Félix (Périgueux 1869 - ?)
Bắt đầu từ năm 1932, giải thưởng hội họa Đông Dương được phát hai năm một lần.
1932    – Évariste Jonchère (Coulonges-les-Hérolles 1892 – Paris 1956). Évariste Jonchère sẽ là người giữ chức vụ Hiệu trưởng Trường Mỹ thuật Đông Dương sau khi Victor Tardieu qua đời tại Hà Nội năm 1937.
1934- Georges Barrière (Bourgogne 1881 – Đồ Sơn 1944).
1936- Jean Despujols (Gironde 1886 – Shreveport 1965).
1938- Louis-Robert Bâte (Bordeaux 1898 – 1948).
Năm 1939, Adolf Hitler đưa hoàn cầu vào chiến lửa, Thế chiến thứ hai bùng nổ (1939-1945), giải thưởng Đông Dương qua đời theo biến cố lịch sử.
Chân thành cảm tạ ông Christian Billet, Chủ tịch Hội Nghệ sĩ Pháp (Société des Artistes Français) đã dành thì giờ quí báu trao đổi ý kiến và giúp chúng tôi tài liệu.
8.2006

N.K.K.

Họa Ảnh Việt Nam - Bức Tranh Độc Đáo Trên Sàn Đấu Giá
Tại cuộc đấu giá của nhà Borobudur diễn ra hôm 11 và 12/10 vừa rồi tại Singapore, trong đề mục Nghệ thuật Hiện đại và Đương đại Đông Nam Á, tác phẩmVietnam Pictorial (Họa ảnh Việt Nam, sơn dầu trên bố, 275 x 200cm) của Thân Lượng (Shen Liang) thuộc số thứ tự 180, có giá sàn từ 28.571 đến 42.857 USD. Bức tranh được giới thiệu là một tác phẩm rất đặc biệt về đề tài nữ bộ đội Việt Nam trong thời chiến tranh, được nhìn bởi một người nước ngoài trẻ tuổi, và có giá khởi điểm rất cao. 1. Thân...
Vài Cảm Nhận Về Cái Động Trong Một Số Tranh Tĩnh Vật Ở Việt Nam
Trần Ngọc Vân Tĩnh vật là một thể loại tranh tương đối mới so với mỹ thuật truyền thống của dân tộc ta. Trước thế kỷ 20, ở Việt Nam tranh tĩnh vật chưa có một sự tồn tại độc lập với ý nghĩa là một thể loại tranh riêng biệt. Trong mỹ thuật dân gian, chủ yếu của dòng tranh Đông Hồ, Hàng Trống, Ngũ quả là một trong những tranh tĩnh vật hiếm hoi còn thấy được. Ngoài ra còn có dạng tranh tứ bình (mai, lan, cúc, trúc) cũng tương đối phổ biến. Tuy nhiên, có thể nói tranh tĩnh vật như một thể loại...
Niềm Hoan Ca Của Hội Họa
Điền Thanh Kiệt tác của Henri Matisse là ngôi sao chói lọi, thu hút mọi người xem trong một cuộc triển lãm các họa phẩm trứ danh của hai nền mỹ thuật Nga-Pháp mượn được từ các viện bảo tàng của Nga ở Moscow và St.Petersburg. Giá như lúc này đây bạn được tận mắt thấy tuyệt tác hoành tráng, gây ấn tượng sâu đậm ấy nhan đề Vũ khúc (The Dance), trưng bày tại Bảo tàng Viện Hàn lâm Hoàng gia Anh thì hay biết mấy. Được nhà sưu tầm Sergei Shchukin đặt vẽ năm 1910 để treo tại đại sảnh mênh mông...
Vị Trí Nào Dành Cho Nền Hội Họa Hôm Nay ?
? Điều lặp đi lặp lại khá nhàm tai của người Pháp: nền hội họa đang tụt dốc như một cái trục lăn, điều tồi tệ là nó đã chết và được chôn vùi từ lâu. Nếu đi sâu vào chi tiết để mổ xẻ thì ta có một danh sách rất dài các vấn đề mà các họa sĩ đương đại cần giải quyết .Đó là tâm lý trầm uất đã được họ thể hiện về mặt nghệ thuật. Sự phát triển tiềm năng của ngành video, nhiếp ảnh, nghệ thuật sắp đặt và trình diễn cho ta cảm giác đã đi đến sự kết thúc của nền hội họa. Việc nghiên cứu vấn đề này...
SƠN MÀI VIỆT NAM _CON ĐƯỜNG DI SẢN
Nguyễn Văn Minh Nghề sơn được hiểu như một nghề truyền thống, phát triển trên cơ sở hình thành những quần cư nông nghiệp lúa nước. Ban đầu, việc dùng nhựa sơn chỉ có ở vùng Viễn Đông như Trung Quốc, Nhật Bản, Triều Tiên, vùng Đông Nam Á như Việt Nam, Lào, Campuchia hay Thái Lan, … Xuất phát điểm của nó rất có thể từ Trung Quốc rồi lan dần sang các nước khác theo một tiến trình giao lưu văn hóa. Từ đó, sơn mài Việt Nam trên con đường phát triển, ít nhiều chịu ảnh hưởng, tác động của sơn mài...
THỬ ĐI TÌM SỰ TƯƠNG ĐỒNG VÀ KHÁC BIỆT GIỮA HỘI HỌA VÀ ẢNH NGHỆ THUẬT
Lương Bửu Hoàng Việc nghiên cứu các mối quan hệ giữa mỹ thuật và nhiếp ảnh có rất nhiều góc độ khác nhau và còn nhiều ý kiến chưa thống nhất, nên khi đi tìm sự tương đồng và khác biệt giữa hội họa và ảnh nghệ thuật ta sẽ bắt gặp không ít những vấn đề phức tạp. Hơn nữa, khi đặt chúng trong mối quan hệ đa chiều của nghệ thuật tạo hình thì lại nảy sinh những vấn đề không chỉ là sự riêng có giữa hội họa và ảnh nghệ thuật mà còn liên quan đến nhiều nghệ thuật khác như điêu khắc, đồ họa, trang...
Nét, Nhịp Điệu Trong Tranh VAN GOGH
Chú thích hình Van Gogh, hoặc Vincent, vì ông thích được gọi với tên này hơn, đã viết cho người em là nhà buôn bán tranh nghệ thuật Theo vào đầu tháng 9 - 1880, khi ông vừa mới quyết định trở thành một họa sĩ: Giờ đây anh nhìn sự vật với đôi mắt khác hơn trước lúc bắt đầu vẽ . Ông đã diễn tả cảm quan của mình về sự vật một cách nhẹ nhàng như vậy. Cuộc triển lãm Vincent Van Gogh: The Drawing do Viện Bảo tàng Van Gogh ở Amsterdam và Viện bảo tàng Nghệ thuật Metropolitan ở New York tổ chức đã...
Top 10 Khuynh Hướng Nghệ Thuật Đương Đại
Chú thích hình Edith Newhall NGHỆ THUẬT GOTHIC MỸ Hình ảnh về cuộc nội chiến và những khoảnh khắc đen tối trong lịch sử quốc gia là đề tài mà nghệ sĩ thể hiện những mối quan tâm về hiện tại Tác phẩm Một thế kỷ của tháng mười một tại trung tâm của Dario Robleto 2005 là một cái áo đầm để tang của đứa trẻ được làm bằng giấy. Bột giấy được nhào nặn từ những bức thư của những người lính không bao giờ trở về từ chiến tranh. Áo đầm được trang trí bằng mực chích từ những bức thư, những cái nút bằng...
Mỹ Thuật Đương Đại Trung Quốc Sẽ Trở Thành Một "Siêu Thế Lực"?
? Mao Trạch Đông Trong số các nghệ sĩ mỹ thuật hàng đầu thế giới hiện nay có hơn một nửa là người châu Á. Đây rõ ràng là một sự thay đổi lớn, bởi thị trường nghệ thuật thế giới đã nằm trong sự thống trị của các tên tuổi đến từ châu Âu suốt 500 năm. Trong số 20 họa sĩ đương đại ăn khách hàng đầu thế giới hiện nay có 13 nghệ sĩ châu Á, với 11 người đến từ Trung Quốc. Còn trong 10 tên tuổi bán được nhiều tác phẩm mỹ thuật nhất ở các cuộc đấu giá, châu Á có 6, với 5 nghệ sĩ là người Trung Quốc....
Hội Họa Pháp & Ảnh Hưởng Của Nó Tại Đông Dương
Nguyễn Văn Minh Trong hội họa, nước Ý đi trước các nước Châu Âu. Những năm 1300, Ý đã có những họa sĩ lớn, và từ năm 1400, có những danh họa vô song. Dòng họ Médicis gần như đã đam mê, ủng hộ nghệ thuật một cách cuồng nhiệt, làm sống động một sự phục hưng, và chính sự phục hưng này đã làm cho những nhà cầm quyền độc tài ở Florence, những giáo hoàng ở Rome, thấy được màu máu của nó cũng đã chảy trong những tĩnh mạch của các ông vua nước Pháp. Chuyển động phục hưng này đã được hưởng ứng một...
KẺ DỊ THƯỜNG DAMIEN HIRST
Y Chiêu Trong lịch sử mỹ thuật thế giới, chưa có ai lập được kỳ tích như Damien Hurst, nghệ sĩ tạo hình đương đại người Anh 43 tuổi. Dù các tác phẩm của ông còn gây tranh cãi về giá trị thẩm mỹ, chúng đã gây được những cơn sốt không tài nào hiểu nổi trên thị trường. Người ta đã mua tất cả những gì có chữ ký của Hirst. NHỮNG KỶ LỤC Ngày 16 và 17/09 vừa qua (2008), Sotheby s London đã tổ chức đấu giá trực tiếp cho toàn bộ tác phẩm của Hirst. Điểm đặc biệt của sự kiện này là tác giả không thông qua...